Ngày 30 tháng 12 năm 2020, Chính phủ ban hành Nghị định 152/2020/NĐ-CP quy định về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, quy định người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động gồm:
Người lao động là chủ sở
hữu hoặc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có giá trị góp vốn
từ 3 tỷ đồng trở lên; Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản
trị của công ty cổ phần có giá trị góp vốn từ 3 tỷ đồng trở lên;
Người lao động di chuyển
trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ trong biểu cam kết dịch
vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới, bao gồm: kinh doanh, thông
tin, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, tài chính, y tế, du lịch, văn
hóa giải trí và vận tải;
Người chịu trách nhiệm
thành lập hiện diện thương mại;
Người lao động vào Việt
Nam làm việc tại vị trí nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động
kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và không quá 03 lần trong 01 năm;
Người lao động vào Việt
Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ;
Người lao động vào Việt
Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ
phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh
doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt
Nam không xử lý được;
Luật sư nước ngoài đã
được cấp Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy định của Luật Luật
sư; Người lao động được Bộ Ngoại giao cấp giấy phép hoạt động thông tin, báo
chí tại Việt Nam theo quy định của pháp luật; Người được Bộ Giáo dục và Đào tạo
xác nhận người lao động nước ngoài vào Việt Nam để giảng dạy, nghiên cứu;
Người lao động vào Việt
Nam để cung cấp dịch vụ tư vấn về chuyên môn và kỹ thuật hoặc thực hiện các nhiệm
vụ khác phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng, thẩm định, theo dõi đánh
giá, quản lý và thực hiện chương trình, dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) theo quy định hay thỏa thuận trong các điều ước quốc tế về ODA
đã ký kết giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước ngoài;
Người lao động được cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cử sang Việt Nam giảng dạy, nghiên cứu
tại trường quốc tế thuộc quản lý của cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài hoặc
Liên hợp quốc; các cơ sở, tổ chức được thành lập theo các hiệp định mà Việt Nam
đã ký kết, tham gia;
Người lao động vào Việt
Nam thực hiện thỏa thuận quốc tế mà cơ quan, tổ chức ở Trung ương, cấp tỉnh ký
kết theo quy định của pháp luật;
Người có hộ chiếu công
vụ vào làm việc cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị– xã
hội;
Thân nhân thành viên cơ
quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam;
Trường hợp theo quy định
của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
Trưởng văn phòng đại diện,
dự án hoặc chịu trách nhiệm chính về hoạt động của tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ nước ngoài tại Việt Nam;
Người lao động là tình
nguyện viên;
Học sinh, sinh viên
đang học tập tại các trường, cơ sở đào tạo ở nước ngoài có thỏa thuận thực tập
trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam; học viên thực tập, tập sự
trên tàu biển Việt Nam;
Người lao động là người
nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
So với quy định tại Nghị
định 11/2016/NĐ-CP, bổ sung thêm trường hợp người chịu trách nhiệm thành lập hiện
diện thương mại không thuộc trường hợp cấp giấy phép lao động. Bên cạnh đó, chỉ
chủ sở hữu hoặc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn; Chủ tịch Hội
đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần phải có giá
trị góp vốn từ 3 tỷ đồng trở lên được xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép
lao động.
Nghị định có hiệu lực kể
từ ngày 15 tháng 02 năm 2021.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét